Monday, January 2, 2012

KÝ ỨC VỀ CHA TÔI



Bài viết này dựa theo ký ức và tâm tư, theo bản tính tự nhiên nên lối viết có phần thiếu văn hoa bóng bảy trau chuốc như những người viết chuyên nghịêp. Mong bạn đọc thông cảm và xem như một truyện kể lại, nhớ đến đâu kể đến đó…
“Cha mẹ” hai tiếng gọi thân thương mà ai cũng thốt lên từ thuở nằm nôi. “Ba, ba” là tiếng nói gần gũi và cao quí, lớn như biển, rộng cao diệu vợi như trời cao kia. “Mẹ, mẹ” như nguồn nước ngọt, mang nặng đẻ đau, chăm sóc từ miếng ăn mảnh áo. Sinh ra và lớn lên trong hơi ấm của gia đình mười anh chị em, tôi là con trai thứ hai sau anh lớn của tôi, mà người Nam thường gọi là anh ba.
Cha tôi là người sống rất vị tha thông minh, cần cù, khi trưởng thành cha tôi đi lính Tây sau khi giải ngủ cha tôi đi học lấy nghề thợ sửa máy, học hành chăm chỉ, được thầy rất thương đồng nghiệp quí mến. Cha tôi đã đào tạo không biết hàng trăm hay nhiều hơn thế lớp học trò giỏi cho đời và xã hội. Học trò cha tôi rất thành đạt và rất nhớ ơn dạy dỗ của cha tôi.
Cha tôi cũng là trụ cột gia đình, người nghiêm khắc chịu khó hy sinh cả đời làm lụng cực khổ cho chúng tôi được ăn học thành tài. Mẹ tôi người ít nói tỷ mỹ không ngại khó, giúp đỡ công việc cho cha tôi, chăm sóc chúng tôi từng miếng ăn giấc ngủ.
Dù sống trong chiến tranh, nhưng nền tảng xã hội miền Nam vẫn dựa trên gia đình…Trong gia đình cha tôi là gia trưởng trụ cột, con cái luôn luôn vâng lời và nghe theo quyết định của người. Nhớ hồi còn nhỏ tôi đi học, sáng nào cũng khoanh tay “thưa Ba, thưa Má con đi học”. Chiều về cũng khoanh tay “thưa Ba, thưa Má con đi học mới về”, cha tôi nói “đi thưa về trình”. Tôi không dám ái mộ lối giáo dục như vậy vì nó có ưu điểm nhưng cũng có khuyết điểm không kém, khi sống ở xứ người tôi nhận ra rằng trẻ em Việt Nam quá nhút nhát khi gặp và đối xử với người lớn tuổi hơn mình…
“Sóc Trăng” nơi chôn nhau cắt rốn, mảnh đất hiền hòa. Khi ba anh em tôi ra đời, chúng tôi chứng kiến cảnh cha tôi làm lụng vất vả và bị kẻ chức quyền lấy nhà, chúng tôi không nhà ở, phải lấy xe máy cày làm mái nhà che tạm để có chỗ ăn ngủ. Đó là những ngày đầu khó khăn mà chúng tôi chứng kiến, cha tôi bùi ngùi và nói với các con rằng “cha làm thợ để các con ăn học thành thầy mà ngẩng đầu với đời, không chịu cảnh ức hiếp này”. Sau những năm tháng lao động gian nan cha tôi đã có được một công xưởng nhỏ ở đường Tự Đức năm 65, sau đó cha tôi còn mua thêm nhà và làm công xưởng thứ hai taị đường Lê Lợi năm 70, là ngôi nhà thờ tổ của chúng tôi sau này.
Những lúc cha tôi làm việc cực nhọc, tối đến chúng tôi thường quây quần xung quanh cha tôi để đấm bóp cho cha, mà sau này tôi kể lại cho hai con trai tôi nghe chúng nói rằng « sao ông nội sướng thế ».
Khi bắt đầu biết nhận thức, tôi nghĩ rằng cha tôi là người khá nghiêm khắc và hơi khó tính. Có lẽ vì cha tôi đã tự lập từ năm 12 tuổi là đã mồ côi cha và phải bỏ làng ra đi. Cha tôi luôn nhắc nhở chúng tôi « ba bỏ xứ ra đi để lập nghiệp và thề với tổ tiên là nếu không thành công ba sẽ không trở về quê củ ». Cha tôi có ý chí rất cao. Đây là kim chỉ nam cho chúng tôi noi theo để kiên nhẫn chịu đựng và hun đúc ý chí giúp thành công sau nầy. Cha tôi hơi nóng tính, thường xuyên la mắng và đánh đòn các con trai khi chúng tôi có lầm lỗi hoặc làm điều gì không vừa ý cha. Tôi còn nhớ mỗi khi làm xong việc, cha tôi hay gắt gỏng nếu chưa thấy cơm nước sẵn sàng. Những lúc đó, ba anh em chúng tôi tìm mọi cách tránh né gặp cha, khi cha ở nhà trên thì chúng tôi trốn xuống bếp hoặc ngược lạị. Mặc dù cha tôi không có trình độ học vấn cao nhưng cha rất quan tâm đến việc học của con cái. Anh hai tôi có rất nhiều quyền hành trong gia đình. Thứ nhứt anh ấy học lúc nào cũng “nhất lớp”. Thứ nhì vì là anh cả trong nhà nên cha tôi cho anh ấy quyền dạy dổ và kèm chúng tôi học tại gia. Đến bây giờ tôi vẫn không quên ơn anh cả tôi về sự dạy dổ lúc chúng tôi còn bé thơ.
Quãng thời gian trung học ở trường Hoàng Diệu, ba anh em chúng tôi vì học chung trường nên cha tôi bắt buộc phải đi học và về nhà cùng một lúc. Thời tuổi trẻ với nhiều thú vui nghịch ngợm cùng bạn bè, nhất là tôi lại ham thích sáng tạo những dụng cụ đánh nhau- bắn tên, kiếm, súng bắn đá, v.v.v…nên thường rủ ghê bạn hàng xóm đi đánh nhau với xóm khác sau giờ học, anh cả tôi lại có đam mê học hành cho thật giỏi để được phần thưởng và được đi du học về sau. Việc phải chờ nhau để cùng về nhà một lúc cũng là điều gây ra rất nhiều khó chịu và bất đồng ý kiến giữa ba (3) anh em chúng tôi ngày ấỵ Với các con thì nghiêm khắc như thế nhưng cha tôi lại là người được nhiều sự kính nể và quí mến mỗi khi cha có dịp tiếp xúc với bên ngoài : thẳng thắn, vui vẻ, rất cởi mở và rất tôn trọng người đối diện. Vốn bản tính nhút nhát và hiền hậu nên tôi thường ít bị đòn hơn em trai tôi. Suốt quãng thời gian thơ ấu cho đến lúc trưởng thành, chỉ có vài lần tôi thực sự cảm thấy gần gũi với cha.
Năm 13-14 tuổi anh bạn hàng xóm tôi là Trương Duy Bửu rủ tôi đi tập Tea-kwon-do. Tôi vội xin cha cho tôi đi học Tea-kwon-do với lý luận là vì tôi là đứa con trai ốm yếu, sợ không có đủ sức chống chội lại bạn bè nếu bị tấn công. Ông anh cả tôi luôn chống đối việc học võ. Tôi nhớ có lần tôi chuẩn bị để thi lên đai nâu Tea-kwon-do cho nên phải tập luyện ráo riết hàng ngày, vả lại tay chân cũng hơi ngứa ngấy. Tôi cứ đá nhanh đá mạnh vào bức màng che phòng ngủ của ba má tôi, tình cờ ông bước ra từ đàng sau bức màng thì bị trúng cú đá của tôi. Tôi nghe một tiếng “Ự, đứa nào giởn mà đá mạnh thế?”. Cha luốn cuốn vài giây và khi bình tỉnh lại cha có vẻ không hài lòng về sự học võ kiểu này. Thế là từ đó cha tôi cấm không cho tôi tiếp tục học lên đai đen. Nhưng vài tháng sau đó Bùi Quang Tuấn rủ tôi đi học Vovinam với hắn. Học được 1 năm thì lệnh Tổng Động viên ban hành năm 72. Một phần tôi rất bận rộn trong việc học nhảy để đối phó với lệnh ấy, một phần B. Q Tuấn nhập ngủ. Thế là tôi ngưng học võ từ lúc đó.
Hai tháng chuẩn bị thi tú tài thật là gay go. Tôi lên Saigon tìm giáo sư giỏi và nổi tiếng ở Sài Thành để học luyện thi. Ba ngày thi tú tài 1 ở Trung Học Vĩnh Long, tôi vẫn còn nhớ mãi cha và anh trai tháp tùng đến Vĩnh Long để xem tôi thi. Vì giai đoạn này là giai đoạn quyết định vận mạng của tôi sau này, cho nên cha tôi không ngần ngại bỏ công ăn việc làm trong 3 ngày chạy lên chạy xuống Vĩnh Long để theo dỏi việc thi cử của tôi. Sau khi đậu tú tài 1 với hạng Bình, tôi xin chuyển lớp 12B2 ở LasanTaberd Saigon. Năm cuối cùng học ở Sàigòn thỉnh thoảng vài tháng, tôi và anh tôi lái Honda từ Saigon về Sóc Trăng để thăm cha và gia đình.
Anh tôi có ước mơ từ thuở nhỏ là mong được đi du học. Đậu Tú-Tài II với số điểm 15/20 môn Pháp Văn, khá cao so với tiêu chuẩn được đi du học, anh tôi hối thúc tôi nộp đơn và được bộ giáo dục thời ấy chấp thuận qua Canada du học. Trước khi lên đường du học, tôi cũng đậu khá cao nghành Cán sự Phú Thọ. Vì tôi có dịp thực hành và tiếp thu với máy móc trong công xưởng của cha từ thuở nhỏ cho nên tôi rất thích ngành cơ khí. Tôi hứa với cha là sẽ cố gắng học về cơ khí để cha được hãnh diện. Sau tú tài 2 là giai đoạn để lo cho tương lai. Tôi cố thi vào ĐH Phú Thọ nhưng lại trượt đành phải học Cán sự Phú Thọ rồi sau đó tiếp tục lên kỹ sư cơ khí. Vì nghĩ rằng sau 2 năm Phú Thọ thì sẽ có cơ hội để tiếp tục học Kỹ sư tại đây thêm 4 năm nữa. Một phần cũng vì tôi luyến tiếc về việc đi du học với tương lai mù mờ…
Gia đình tôi nói rằng học ở Việt Nam thì khó có hi-vọng mà tiến thân vì gia đình tôi là một gia đình không có giai cấp trong xã hội thì là một vấn đề khó khăn lắm. Vã lại gia-đình tôi không khá giả cho lắm so với gia đình khá giả ở Sài Gòn, cố gắng mua được cho tôi cái vé máy bay để lên đường du học là đã quá sức của bố mẹ. Phần còn lại tôi phải cố gắng lo liệu sinh sống và tự lập nơi xứ lạ quê người…
Thế rồi tháng 11 năm 1973, tôi phải hành trang cuốn gói lên đường du học Canada, bồi hồi bỏ lại tất cả kỷ niệm thời niên thiếu ở Việt Nam để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mới trên đất lạ quê người với một tương lai mù mịt.
Ngày tiễn tôi ra phi trường lên đường du học, cha mẹ tôi dõi mắt trông theo, những giọt lệ cứ tuôn trào trên gò má của mẹ tôi. Tôi dường như thấy Phi trường Tân Sơn Nhất bổng chốc im lìm, không gian bổng chốc biến thành trống vắng, thời gian như dừng lại làm tim tôi quặng thắt, tôi muốn gào thét to lên, và chạy tới, níu giữ lại vòng tay người, hơi ấm, dư hương, hạnh phúc, lý sống của đời mình, rồi từ từ máy bay cất cánh xa khuất và khuất xa mãi, thế rồi tôi giựt mình nhận ra rằng tôi xa rồi mảnh đất mẹ thân thương.
Hai năm đầu du học Canada chúng tôi chỉ liên lạc gia đình qua thư từ bưu điện chứ không có email, Skype và facebook như ngày nay.
Nhưng biến cố năm 75 không khỏi nhiều người ly hương hàng chục năm trời, cha xa con, vợ xa chồng…
Theo lời em tôi kể lại những ngày đầu 30 tháng 4 là những ngày khó khăn và đau khổ của gia đình tôi: đây là khỏang thời gian cùng cực của gia đình, mỗi đứa em tôi phải từng đứa mang túi xách mà Mẹ tôi sắp đặt sẵn chứa đựng ít tiền và vàng, « để trường hợp tụi nó đánh tư sản đột xuất thế là chúng ta sẽ không trắng tay » cha tôi nói. Bạn bè cha tôi bị hòan cảnh mất nhà, như chú Hai Kiều Thái chẳng hạn và trắng tay ra khỏi cữa mà chẳng có gì theo người, cha tôi phải cho các em gái tôi mang cơm đi thăm họ và trong đó có ít thỏi vàng nhét trong lon « sữa guigor » để giúp đở bạn trong lúc họan nạn, hiện nay họ vẫn sống ở nước ngoài và rất mang ơn cha mẹ tôi.
Trong suốt khoảng thời gian sau biến cố này, cha tôi phải mua từng món phụ tùng cũ kỷ và mang về sửa chữa và chùi rửa cho sạch sẽ để bán lại hay thay cho những xe hư mang lại cho cha tôi sửa, vì thời cấm vận thì làm gì có phụ tùng ngoại nhập thay thế như hiện nay, tìm từ 2.000 đồng 50.000 đồng Việt Nam cũng làm cha tôi mãn nguyện thời buổi khó khăn đó. Mẹ tôi phải tảo tầng mua bán thức ăn như hột vịt lộn, chuối, xoài, và nuôi heo, mẹ tôi phải cắt chuối và rau muống mỗi ngày để cho chúng ăn để lớn lên mà bán đi lấy tiền  nuôi cho các em tôi được học hành.
Những lúc các em tôi cùng ăn chung một tô bún nước lèo cùng sáu bảy đứa chụm đầu nhau húp rộp rộp, « ăn đông vui đở hao » cha tôi nói thế.
Em gái thứ 6 tôi học ngành Nha tại Sài Gòn, sau khi ra trường em tôi cũng chưa thích nghi  để trở lại Sóc Trăng làm việc, nhưng cha tôi đã động viên và giúp đở em tôi rất nhiều cho sự nghiệp đầu đời của em gái tôi, khi đó cha tôi phải làm những máy móc trang bị cho phòng mạch bàn ghế, để cho em tôi hài lòng và yên tâm làm việc, mặc khác khi bệnh nhân đến phòng mạch những ngày đầu cha tôi phải tự dắt xe và hướng dẩn bệnh nhân chổ chờ đợi và theo thói quen mến khách cha tôi mời trà nuớc để họ chuẩn bị tâm lý không nôn nóng và lo sợ khi bước vào phòng răng, sẳn tiện cha tôi quảng cáo rất nhiệt tình cho em gái tôi nào là « con tôi rất khéo làm răng rất đẹp nhổ răng không đau sau khi ra khỏi phòng mạch chẳng thấy đau đớn chút nào ».
Cha tôi lúc nào cũng hãnh diện với bạn bè và hàng sớm rằng « con trai lớn tôi là cử nhân, con trai kế tôi là thạc sĩ, con gái và con trai út tôi là kỹ sư, nha sỹ » hầu như lúc nào chúng tôi cũng nằm trong trí của cha tôi về sự hãnh diện này.
Chúng tôi mỗi người một nơi, em gái và các em khác của tôi lên Sàigòn học và làm việc luôn đến bây giờ. Tất cả chúng tôi điều đổ đạt đại học duy chỉ các em trai kế út thì chỉ qua hai năm đầu đại cương ở Đại Học do mắc căn bệnh khắc nghiệt.
Em gái lớn của tôi (5) thành đạt với một Công Ty khang trang nằm giữa lòng Quận một Thành Phố Sàigòn, em kế đến (6) cũng không kém phần, có phòng bán thuốc tây và phòng khám chữa trị về răng hàm mặt, các em út của tôi điều đỗ và xong Đại Học hiện đang làm việc tại Thành Phố Sài Gòn hay nước ngoài.
Em trai kế Út của tôi rất thông minh sáng sủa và chịu khó lại mắt một bệnh, mà căn bệnh này khá phổ biến đối với một số gia đình Việt Nam mà Tây Phương hầu như rất hiếm hoi xảy ra, theo tôi nghĩ do khí hậu và môi trường xung quanh thời nay. Điều này làm cha tôi rất buồn phiền.
Cha tôi hay nói trong những buổi ăn « Ông HCM ổng có lịch sử của ổng Ba có lịch sử của Ba, ổng trăm năm chống pháp, hai mươi năm chống Mỹ », còn cha thì « trăm năm trốn Pháp, hai mươi năm trốn Mỹ » và các con phải « ăn trông nồi ngồi trông hướng ».
Ngày tôi trở về quê hương lần đầu tiên vào những năm 89, những năm đầu tiên việt kiều du học như chúng tôi mới giám liều mình về thăm nhà, vì nhà nước còn kiểm sóat quá rắc rao đối với việt kiều thời đó, lúc nào cũng có Công An bên cạnh, ngày đầu bị kiểm sóat tôi phải ngủ tại khách sạn Century sau tuần thứ hai tôi mới được về với gia đình phải trình giấy tờ tạm trú với Công An Phường, cũng như thủ tục khác liên quan. Khi máy bay gần đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất dưới những ánh sáng đèn le lói không như hiện tại, lòng tôi không khỏi bồi hồi xúc động. Máy bay từ từ đáp xuống lòng vui không tả xiếc, tôi muốn thốt lên rằng « cha mẹ ơi con đã trở về » và khi ra khỏi phi trường tôi gặp lại đầu tiên là gương mặt cha tôi sau đó là mẹ tôi và cả gia đình tôi, tôi nhận ra cha mẹ tôi đã có những nếp nhăn trên trán. Em trai út của tôi nó rất ngỡ ngàng và xa lạ với tôi vì khi ra đi nó còn nằm trong nôi.
Khi tôi trở lại Canada, mẹ tôi tặng cho vợ tôi chiếc nhẫn hột xoàn tuy không phải giá trị quá lớn nhưng nó đặt hết tình cãm của mẹ tôi giành cho vợ chồng tôi. Bởi vì ngày cưới của tôi không có sự tham dự của cha mẹ tôi.
Mỗi độ Tết về tôi thường điện thoại thăm hỏi và chúc thọ cha tôi, cha tôi rất vui vẽ và mừng rở, tuy nhiên những ngày tết năm 2008 cha tôi buồn nói « nghề nghiệp cha không ai nối dỏi » nhưng tôi chưa kịp nói với cha tôi rằng « tôi cũng là kỹ sư cơ khí mà !! ».  Anh em trai chúng tôi chắc là do từ trong dòng máu cha tôi nên rất giỏi và thạo về cơ khí. Cha tôi cũng nhắc nhở chúng tôi rằng hãy thương yêu giúp đở lẩn nhau khi có đứa họan nạn « một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao » như người hay nói. Cha tôi rất lo cho anh em chúng tôi, cha hảnh diện cho các con nhưng không phải tất cả chúng tôi điều thành đạt, nên cha tôi lúc nào rất lo lắng và buồn phiền, cho những đứa con không thành đạt, cha xem chúng tôi lúc nào cũng như những đứa trẻ, và lo cho em trai kế út của tôi.
Những ngày mùa đông năm 2003, cha mẹ tôi sang thăm em gái  tên Nga của tôi sống tại Na-Uy, trong hai tuần lễ giữ cháu ngoại Thái Uy, anh hai và tôi thay phiên nhau điện thoại cho cha mẹ để họ đở buồn và nhớ quê hương, vì cha tôi nói “tỉnh Stavenger khi ra ngoài đường thì thấy người ít hơn xe cộ, thời tiết lạnh lẽo và cảm thấy buồn quá đến muốn "tự tử" luôn”.
Cha mẹ tôi cứ đòi sang Paris gấp với hi vọng sẽ vui hơn Na Uy vì cha tôi lúc nào cũng quen có bà con hàng xóm để trò chuyện và vây quanh. Khi ra đường gặp nhiều người nói chuyện vui vẻ chứ không như cái xứ "khỉ ho cò gáy Na uy" ấy.
Khi đến Paris cha mẹ tôi có vẻ vui hẳn ra vì còn gặp được xui gia là mẹ vợ của anh hai tôi, các con của anh chị Hai, nhất là bé Chương là cháu đích tôn “đầu đời” mà cha tôi không thể nào quên những kỷ niệm ở Việt Nam với bé. Chương rất thương và nhớ nội, vì trước khi ra đi Chương có nói với nội rằng
Nội ơi, con đi con sẽ gửi về cho nội cái quần xà lỏn”
Đối với cha tôi, đây là đứa cháu nội đầu tiên mà cha tôi thường hay nhắc mỗi khi nghĩ tới nó. Tôi nghĩ Chương cũng nhớ đến những kỷ niệm đẹp ngày xưa mà ông nội đã dành riêng cho nó.
Những ngày này anh hai tôi đưa đi xem Tour Eiffel, Chateau Versaille, Champs Élysée, Disney de Paris, v.v.v....Cha mẹ tôi tìm lại được một ít niềm vui ở đây.
Sau đó tôi bay sang Paris để gặp cha mẹ vào dịp Tết, thuê xe cùng anh hai tôi đưa cha mẹ đi Bruxelles thăm gia đình và mẹ của Sinh là em rể thứ tám của tôi và đó là lần đầu mà cũng là lần cuối cùng cha mẹ tôi gặp mẹ của Sinh. Bây giờ có lẽ cha tôi đã gặp lại hai xui gia là mẹ Sinh và mẹ vợ anh hai dưới suối vàng và tha hồ tâm sự v chuyện con cái trên trần gian này….
Sau 3 ngày ở Bỉ, anh Sang (anh của Sinh) đưa cả  nhà  đi thăm Viện Bảo tàng xe hơi Bruxelles cha tôi thích lắm vì là  đúng nghành cơ khí của cha. Đêm mưa tầm tả anh Sang lái xe đưa cả nhà đi Austerlitz (Waterloo) để thăm chị Nguyệt của Sinh và được mời một bửa cơm gia đình. Sau đó hai anh em đưa cha mẹ tôi sang Lichtenstein, 35 km về phía nam của Stuttgart, Đức để thăm chú Hai Kiều Thái là bạn bè cũ và cũng là “em kết nghĩa”của cha tôi.
Đi đường có vẻ gặp nhiều trục trặc vì anh hai tôi nghĩ chỉ cần lấy "hướng đi" là đến nơi dễ dàng, chứ không in lịch trình rỏ ràng. Chúng tôi lạc vài lần khi vừa qua khỏi Stuttgart . Và từ Stuttgart phải nhắm hướng Vailhingen để đi Lichtenstein, theo anh hai. Vừa qua khỏi Stuttgart thì anh hai lần mò hướng đi Vailhingen. Đi khoảng 45 phút mà vẫn không thấy Lichtenstein đâu hết vì trời tối đen mịt mà xa lộ không có đèn, xe hàng to tướng cứ chạy vù vù rất nhanh và rất nguy hiểm, phần vì mình vừa lái xe vừa tìm đường xá và hướng đi. Thế là bị lạc đường và khi xem lại bản đồ thì có 2 tỉnh Vailhingen và vailhingen chỉ khác có chữ V lớn và v nhỏ. Hai tỉnh lẽ này một nằm về phía bắc và tỉnh kia phía nam của Stuttgart . Tôi vẫn chưa hiểu tại sao có 2 tỉnh cùng tên như vậy nữa...Xe ngừng lại cây xăng để hỏi thăm, thì họ nói phải lấy hướng Nam của Stuttgart chứ không phải hướng Bắc chưa kể là dân Đức nói tiếng anh kém cỏi và khó hiểu. Anh hai tôi cải vả với cha tôi, còn mẹ thì quá mệt vì đã đi 10 tiếng đồng hồ trên xa lộ và phần vì đói lã người nên mẹ tôi đề nghị tìm một motel để ngủ lại đêm và ngày mai đi tiếp. Anh hai thì "give up" vì chán nản và đòi quay về Paris (mất 8 tiếng từ Paris-Stuttgart). Theo tôi thì chỉ còn độ 10 Km nữa là tới nơi. Tôi đề nghị điện thoại chú hai để báo cho họ biết là mình lạc đường và sẽ tới trễ khoảng 10 giờ tối thay vì 8 giờ để chú thiếm chờ ăn cơm chung.  Tôi đề nghị là để tôi lái xe đi đến nhà chú Hai và nhắm hứơng nam. Gần tới nơi gọi ĐT cho chú hai ra đón tại nhà ga của Vailhingen và về đến nhà chú gần 10 giờ đêm.
          Gặp chú Hai tay bắt mặt mừng, chú thiếm tiếp đải cha mẹ tôi rất nồng hậu vì chú hai chịu ơn cha tôi ngày xưa khi chú bị đi vùng kinh tế mới....Và đây cũng là lần cuối cùng chú Hai Kiều Thái gặp lại người “anh kết nghĩa” của chú…
         Chú Hai Kiều Thái ngày xưa là một trong những đại doanh giàu có nhứt nhì ở ST. Chú tâm sự rằng bây giờ mình nên tu tỉnh và giúp đở những người nghèo khó hơn mình để đền bù lại cái ân huệ mà chú được hưởng và cái cái lộc ngày xưa mà Trời Phật đã ban cho gia đình chú…
Khi về VN cha tôi rất hãnh diện với bà con hàng xóm và khoe rằng ông đã đi khắp Âu châu như Na Uy, Đức, Bỉ, Pháp, Luxembourg, Đan Mạch, v.v.v., và chụp rất nhiều ảnh lưu niệm...
Thời gian thắm thoát trôi nhanh, em gái thứ 8 tôi sống xa quê được vài năm thế là một buổi trưa ngày tháng 11 năm 2008 đã chiêm bao thấy đám tang cha tôi trước lúc cha tôi mất hai ngày, mặc dầu lúc đó chúng tôi cũng vừa nói chuyện với cha tôi như thường lệ qua điện thoại. Điều này là khó tin với chúng tôi vì nó quá đột ngột và chỉ là giấc chiêm bao.
Cô em gái thứ 5 sống ở Sài Gòn khi cùng cha tôi đi chùa trước vài ngày cha tôi mất, cha tôi chưa hề ăn chay nhưng ngày ấy cha tôi cũng ăn chay và nói « là ăn chay nhẹ bụng ».
Cha tôi nói với mẹ tôi tối trước hôm cha tôi té « bà ngủ tối nay với tôi một đêm nhe », mẹ tôi bảo rằng « ngủ chung không quen ».
Sáng như thường lệ mẹ tôi xuống nhà chổ phòng ngủ của cha tôi để cùng cha tôi đi vòng hồ nước ngọt và tập thể dục dưỡng sinh. Nhưng bất chợt mẹ tôi phát hiện cha tôi nằm sóng xoài trên đất và tim đập nhẹ nhưng người bất động.
Chúng tôi hay tin cha tôi té ngã và nằm hôn mê tim đập nhẹ trong bệnh viện Sóc Trăng, tôi lúc ấy rất lúng túng vì vừa nói chuyện với cha tôi chỉ vài ngày, tôi không biết phải làm gì và em gái tôi nhắc rằng nên đặt vé về ngay. 
Nghe tin cha tôi hôn mê sắp sửa ra đi, tôi bàng hoàng hụt hẩng, tê điếng cả người, không tin những điều mình nghe là thật. Hình như một khoảng trời vừa sụp xuống, tôi bàng hòang, nhưng gương mặt nhòe nhoẹt nước mắt của tôi khi báo tin dử nầy cho mấy đứa con tôi đang đứng trước mặt, tôi cố tình giử kín niềm đau trong lòng…
Tôi biết cha ở trên cao nhìn xuống, thấy được nỗi đau đớn của chúng tôi chắc cha cũng không đành lòng, nhưng biết làm sao đây!  Chúng tôi thương nhớ cha mãi mãi, chảy khô nước mắt mà vẫn không đền đáp được công ơn của cha như biển trời lai láng, nhưng chúng tôi cũng vẫn không đem cha về lại được với mình, nhìn cha ra đi mà chúng tôi không nói được lời từ biệt hay kính thương cha ! Điều bất-hạnh đau đớn nhất trong đời, tôi chưa bao giờ nghĩ đến, sau cùng rồi cũng xảy ra.
Chúng tôi tất cả đã đã trở về từ nhiều nước khác nhau trong thời gian ngắn nhất để được hy vọng gặp lại cha và nghe được người nói chuyện như xưa. Trên chuyến bay về Việt Nam cha tôi đã qua đời vào những ngày 18 tháng 11 năm 2008 sau ba ngày nằm viện, chỉ riêng em gái thứ 8 của tôi vì hòan cảnh không về kịp ngày tang của cha tôi. Chúng tôi là người về trễ sau khi tẩn liệm cha tôi, nên chúng tôi được nhìn mặt cha tôi qua tấm kính sau khi liệm theo kiểu làm hòm hiện nay, nhưng tôi không khỏi đau lòng khi nhận không ra gương mặt nghiêm khắc của cha tôi vì nó xưng lên trong những ngày tiêm thuốc biển ở bệnh viện. Hai hàng nước mắt tôi chảy nhưng lòng thì se lại vì chưa nói lời chia tay với cha tôi cũng như cha tôi không thấy được sự thành đạt của con cái thì người đã ra đi mà không kịp nói gì trước lúc ra đi.
Nói về tình thương của cha đối với con cái, thật là một điều khó, vì cha rất thâm trầm, nghiêm nghị, sâu sắc, nhìn có vẻ như ít gần gũi chúng tôi như Mẹ. Nhưng khi gần cha chúng tôi thấy có một hơi ấm rất gần và thấu hiểu và thông cảm của cha.
       Cha tôi rất nghiêm nghị trong việc giáo huấn con cái, thưởng phạt công minh. Mỗi lần chúng tôi phạm lỗi bị bắt nằm sấp trên giường.  Cha tôi thong thả đi lấy con roi mây treo ở góc phòng. Từ từ cha tôi hỏi han cho rỏ ràng câu chuyên rôi dần dần xử lý từng đứa một cho công bằng, trong khi chúng tôi nằm run rẫy sợ đòn roi. Xong xuôi cha tôi mới đến hỏi cớ sự và người ngồi thuyết giảng đạo đức dài rồi nhịp nhịp roi xong mới đánh, cứ vừa đánh vừa giảng. Đánh ít nhưng làm chúng tôi thấm đòn. Sau nầy khi đã lớn khôn cha tôi mới giải thích là khi giận không nên đánh con, vì như vậy chỉ là đánh cho hả giận, và sẽ làm đau con cái. Mà phải vừa đánh vừa giảng đạo lý thì mới có hiệu qủa giáo dục. Con đau một, lòng cha đau mười, chúng tôi nghe xót xa và ân hận. Nhưng tuổi trẻ ham vui dễ quên, chúng tôi đã làm đau lòng cha qúa nhiều. Thật sự, lòng cha tuy nghiêm khắc nhưng cũng rất ư rộng lượng bao dung. Dù nghiêm khắc đến mấy, khó khăn đến mấy, nhưng một khi con ngã hố, sa chân… thì người đầu tiên đỡ con đứng lên, lại là người cha khả kính.                  
         Cha kính yêu của chúng tôi đã không còn nửa, nhưng nhừng kỷ niệm êm đẹp với người vần còn mãi trong lòng anh em chúng tôi.  Cha tôi tính tình rất hiền hòa, dễ mến, đối sử tốt với láng giềng, bạn bè và hàng xóm.
Thật đau lòng khi đường đời cha tôi quá ngắn nên đã không thể đi bên cạnh cuộc đời của chúng tôi lâu hơn. Cha không còn là cây cổ thụ để chúng tôi nương dựa trong cơn bão lửa cuộc đời…Cha tôi mất khi tôi tròn 53 tuổi.
Anh trai cả của tôi mà người miền nam gọi là anh hai, anh tôi ăn chay trường từ thuở nhỏ, sau ngày chôn cất cha tôi anh đã thấy những vần sáng và mùi thơm từ từ bay lên rất rõ ràng, đó là điềm gì chúng tôi là người phàm mắt thịt khó mà giải thích được, nhưng cũng cùng có mong ước rằng cha tôi đã mãn nguyện và giải thoát cỏi đời này.
Sau khi cha tôi mất em gái thứ 5 tôi cũng ăn chay luôn và làm rất nhiều chuyện thiện nguyện giúp đỡ rất nhiều người bất hạnh.
Sự ra đi của cha tôi để lại sự trống vắng và hục hẫn nặng nề cho mẹ tôi, mẹ tôi trở nên trầm lặng và ít nói ít cười và hay quên, do vì cha tôi mất quá đột ngột mà sự chung thủy của cha tôi hàng mấy chục năm trời cha tôi đã cho mẹ tôi sự trìu ấm này, cha tôi thường nói với mẹ tôi “còn tôi là bà còn tât cả”. Mẹ tôi thương cha tôi lắm chăm sóc cho cha tôi từ cái ăn giấc ngủ, từ những bộ quần áo cho hội tiệc đến đồng phục khi làm việc...
Ngày cuối xuân năm 2009 tôi trở về lại quê hương để thấp lên mộ cha tôi một nén hương để tưởng nhớ người đã ra đi, tôi đi tảng bộ xung quanh hồ Nước Ngọt Sóc Trăng để hình dung và nhớ lại lúc cha tôi và tôi đi tảng bộ như thế. Tôi lúc nào cũng nghĩ là đang đi bên cạnh cha tôi để được người dạy dỗ những lời hay ý đẹp, nhưng bất chợt những cơn mưa phùn thóang qua và quyện cùng hai hàng nước mắt của tôi, tôi bừng tỉnh lại và nhớ rằng văng vẵng bên tai cha tôi nói « công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha cho tròn chữ hiếu mới là đạo con ». Thực ra khi người con có hiếu chỉ cần một câu ngắn gọn như vậy cũng đủ làm hành trang và vốn liếng để nghĩ nhớ đến cha suốt cả cuộc đời. Nếu tôi nhớ không lầm thì Việt Nam mình chưa có ngày lễ để tưởng nhớ về mẹ và cha như ở tây phương này...Nhưng Việt Nam ta có lễ Vu Lan được ví như ngày lễ báo hiếu cha mẹ. Tôi không rõ là lễ Vu-Lan tượng trưng cho sự báo hiếu có tự bao giờ.
Nhớ thuở nhỏ mỗi dịp Vu Lan về chúng tôi cùng Mẹ đi chùa để lễ  Phật. Ngồi nghe mấy quí thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà tôi thấy khoé mắt Mẹ nhoè lệ. Lúc ấy tôi nghĩ ai cũng có một nỗi đau thương trong lòng và đấy là dịp để Mẹ tôi tỏ ra lòng hiếu thảo. Những khi ấy tôi thấy có người cài lên áo hoa đỏ trong khi đó những người khác với hoa trắng. Tôi hỏi Mẹ tôi tại sao có những hoa đỏ và hoa trắng đượm chút đau lòng, buồn tủi. Tôi hỏi mẹ tôi “tại sao không mang cả hai loại hoa cho có vẻ đẹp hơn không”. Mẹ tôi nở nụ cười hiền hoà và cắt nghĩa rằng “hoa đỏ là cho những người còn Mẹ và hoa trắng cho những người không còn Mẹ nữa”. Và thời gian cứ thế trôi qua những kí ức đó, những hình ảnh của bông hồng và cả những giọt nước mắt lăn dài trên má của bao nhiêu người mà tôi đã được thấy vẫn theo tôi cho đến ngày nay...Về hình thức tôi có cảm tưởng là ngày Vu Lan với bông hồng cài áo là để tưởng nhớ về mẹ nhiều hơn cha. Chúng tôi hãnh diện cài bông hồng vì còn mẹ nhưng về hình ảnh cha thì chúng tôi chỉ còn biết để trong ký ức.
Cha thân yêu, đã lâu lắm rồi, tôi vẫn thường nhủ lòng sẽ có một lần sẽ viết về cha. Nhưng giờ đây trí óc không được tốt để ghi lại hết những kỷ niệm đẹp giữa cha và chúng tôi…Em Oanh thỉnh thoảng nhắc lại một vài sự kiện để mong tôi viết một vài dòng ký ức về cha.
Chúng tôi và cha không còn dịp được gần gũi nhau như trước nữa. Giây phút cuối cùng khi cha ra đi, tôi không có cái may mắn để trò chuyện hoặc nghe cha tôi nói câu cuối cùng. Tôi chỉ muốn thưa với Cha một điều mà trước kia chúng tôi đã không có dịp thưa chuyện cùng với cha. Tôi vẫn biết một trong những ước nguyện của cha mong sẽ có ít nhất một đứa con trai tiếp tục sự nghiệp mà cha đã gầy dựng lên, quản thủ garage của cha. Út lớn đã giúp và quản lý công xưởng của cha một thời gian rồi nhưng vì mắc căn bệnh nan y cho nên không tiếp nối được sự nghiệp của cha. Sau khi cha ra đi chúng tôi đã trao đổi rất nhiều với nhau trước khi đi đến quyết định cuối cùng là giải thể công xưởng của cha. Chúng con mong cha nơi suối vàng hiểu, thông cảm và tha tội cho chúng con về quyết định này. Nhưng có điều an ủi cho cha là dầu sao tôi cũng là kỹ sư cơ khí thì gián tiếp là đã nối dòng nối dõi của cha rồi còn gì…
Sắp đến ngày lễ giỗ cha, tôi ghi lại những kỷ niệm êm đẹp của một thời cha để lại như một nén hương lòng thắp lên tưởng nhớ đến cha.

Nhân ngày giỗ cha 18-11-2010, cầu xin linh hồn cha Ngộ Phật Duyên được yên nghỉ ngàn đời nơi đất Phật hằng sống…
Mong rằng ở nơi bình yên ấy cha sẽ nhìn thấy chúng tôi thành công, cũng như tôi đã và đang tiếp nối sự nghiệp của Người.

Phuc Nguyen
Edited by Nguyễn Tuyết
Nhân dịp lễ Vu Lan 2011